3 khía cạnh về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trước và trong đại dịch COVID – 19

3 khía cạnh về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trước và trong đại dịch COVID - 19

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết, giao lưu và hợp tác giữa nền kinh tế quốc dân với các nền kinh tế quốc gia khác hoặc các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những xu thế lớn và tất yếu trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 bùng phát, hầu hết các quốc gia trên thế giới chịu nhiều tác động về kinh tế – xã hội trong đó có Việt Nam. Tuy vậy, Việt Nam vẫn không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, quan hệ đối tác chiến lược với các nền kinh tế lớn trên thế giới để khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế.

Tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế

Trên cơ sở các hiệp định đã ký kết, các chương trình phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hóa, xã hội được phối hợp thực hiện giữa các Quốc gia thành viên. Mỗi nước thành viên đều có cơ hội và điều kiện thuận lợi để sử dụng tối ưu các lợi thế quốc gia trong phân công lao động quốc tế và từng bước thay đổi cơ cấu sản xuất, xuất nhập khẩu để đạt hiệu quả cao hơn. Nó thúc đẩy và tăng cường phát triển quan hệ thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài và mở rộng thị trường xuất  nhập khẩu.

 

Hội nhập kinh tế quốc tế - Đòn bẩy phát triển kinh tế
Hội nhập kinh tế quốc tế – Đòn bẩy phát triển kinh tế

 

Ứng phó linh hoạt đối với sự phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước thành viên, tạo sự ổn định tương đối để cùng phát triển, hỗ trợ thiết lập và phát triển nền tảng lâu dài cho các mối quan hệ song phương, khu vực và đa phương.

 

Hình thành cơ cấu kinh tế quốc tế mới thuận lợi về quy mô, nguồn lực phát triển, giải quyết việc làm, tăng thu nhập của dân cư và tăng phúc lợi xã hội. Tạo động lực cạnh tranh, thúc đẩy ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, cập nhật cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế; Học hỏi kinh nghiệm quản lý ở các nước phát triển.

 

Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tạo điều kiện và nâng cao vị thế để mỗi quốc gia tìm được vị trí thích hợp trong Trật tự thế giới mới. Nâng cao khả năng của chúng ta trong việc duy trì an ninh, hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và toàn cầu. Ngoài ra, còn góp phần hoàn thiện các chính sách kinh tế quốc dân và hệ thống luật pháp phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Điều này làm tăng tính chủ động và mặt tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế.

Thành tựu đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã đạt được một số thành công, đóng góp chung vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Năm 2018, tổng trị giá xuất nhập khẩu  ước đạt 475 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu là 239 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2017. Hàng Việt Nam  tiếp tục sử dụng thị trường truyền thống và mở. Mở rộng tìm kiếm của bạn và khám phá các thị trường mới. Đặc biệt, xuất khẩu sang thị trường các nước đã ký hiệp định thương mại tự do (FTA) với Việt Nam đang có mức tăng trưởng cao so với năm 2017. Việc sử dụng các ưu đãi trên thị trường  FTA là khoảng 40%, tăng đáng kể so với mức xấp xỉ 35% của năm trước. Điều này cho thấy các công ty Việt Nam đang ngày càng chú trọng đến việc tận dụng các cơ hội  hội nhập và thực hiện các hiệp định thương mại tự do.

Thành tựu đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Thành tựu đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

 

Sau hơn 30 năm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),  cả nước hiện có  vốn đăng ký xấp xỉ 333 tỷ USD và hơn 26.600 dự án đang được triển khai. Khu vực FDI vì thế ngày càng phát triển và trở thành một trong những khu vực năng động nhất của nền kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng vào việc mở rộng năng lực sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Ngày nay, khu vực FDI chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm cho người dân và ổn định tình hình xã hội. Riêng năm 2018, Việt Nam  thu hút 1.918 dự án cấp phép mới với  vốn đăng ký  hơn 13.481 tỷ USD, tăng 18,1% về số dự án và 0,2% về vốn đăng ký so với năm 2017. FDI “góp phần quan trọng trở thành điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam. FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.  FDI hiện chiếm hơn 50% giá trị sản xuất công nghiệp, viễn thông, dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin…. Nó không chỉ thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà còn là nền tảng quan trọng cho sự tăng trưởng lâu dài. Mặc dù xu hướng bảo hộ mậu dịch đã xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới, vốn đầu tư và doanh thu du lịch từ các đối tác chính trong năm tới vẫn tăng trưởng so với năm trước. Các đối tác đã đóng góp hơn 3 tỷ USD cho Việt Nam  từ nay đến năm 2020. Số lượng khách du lịch nước ngoài đến thăm Việt Nam trong năm 2018 đã vượt mốc 13 triệu lượt, mức cao kỷ lục

Thời cơ và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19

Phó Chủ nhiệm Nguyễn Tuấn Anh cho rằng, năm 2021, tình hình dịch bệnh COVID-19 sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp trong khu vực và trên thế giới. Với sự xuất hiện của biến thể Delta rất nguy hiểm, có tốc độ lây lan nhanh chóng, nhiều quốc gia có tiềm lực kinh tế cao và tỷ lệ tiêm chủng rộng rãi cũng khó đối phó với đột biến này.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Tuấn Anh. Ảnh: VGP/Lê Sơn.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Tuấn Anh. Ảnh: VGP/Lê Sơn.

Trong nội bộ, kể từ khi xuất hiện đột biến Delta vào cuối tháng 4 năm 2021, cả hệ thống chính trị và toàn dân phải tự vào cuộc thử thách chống dịch. Dịch bệnh đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt kinh tế – xã hội, sức khỏe và đời sống của người dân.

Với tinh thần và phương châm “chống dịch như chống giặc”; “Bảo vệ sức khỏe nhân dân  trên  hết”, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt, kịp thời, với các giải pháp sát với tình hình thực tế, sớm xây dựng chiến lược tiêm chủng phù hợp, đến nay nước ta đang từng bước khống chế  tác động của dịch. Trong hoàn cảnh khó khăn do ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh,  kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới  suy giảm thậm chí âm nhưng GDP  9 tháng ước đạt mức tăng trưởng 1,42% là một thành công. Đây là thành quả đáng ghi nhận trong nỗ lực chung “vừa phòng chống dịch vừa duy trì phát triển sản xuất kinh doanh”, nhất là trong bối cảnh nhiều địa phương là trung tâm kinh tế công nghiệp của Việt Nam. Miền Nam phải thiết lập phân chia xã hội theo chỉ thị số 15 và 16 của Thủ tướng Chính phủ.

Thời cơ và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID - 19
Thời cơ và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID – 19

 

Là một đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động thương mại và đầu tư, v.v., những kết quả đạt được về xuất khẩu và sản xuất công nghiệp đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế Việt Nam. Đồng thời, ngành nông nghiệp ngày càng khẳng định vai trò là trụ cột của nền kinh tế, giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm cho đời sống của nhân dân.

Phó Chủ tịch Nguyễn Tuấn Anh chỉ rõ, trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, thách thức  do dịch bệnh, tiềm lực kinh tế còn hạn chế, nhưng nhìn chung 9 tháng đầu năm 2021, kinh tế nước ta luôn giữ  được  ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát tốt theo mục tiêu, thực hiện rất quyết liệt, đồng bộ các giải pháp nhằm đảm bảo  an sinh xã hội, chăm lo  đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chăm lo tốt an sinh và phúc lợi xã hội thực sự là điểm sáng trong “bức tranh” kinh tế – xã hội trong bối cảnh khó khăn chung.

Về sự sụt giảm nghiêm trọng của một số ngành, lĩnh vực trong thời gian gần đây, cụ thể là du lịch, dịch vụ và vận tải hàng không, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho biết, đây cũng là đợt đại dịch COVID-19 đã khiến các tỉnh, thành phố trọng điểm và đầu tàu kinh tế bị ảnh hưởng. Đặc biệt, diễn biến dịch bệnh phức tạp, khó lường, gây ảnh hưởng xấu đến xã hội đã kéo dài từ tháng 7 đến nay tại các tỉnh miền Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh. Hà Nội đã tác động trực tiếp đến việc thực hiện chỉ tiêu tăng trưởng của một số ngành, lĩnh vực, nhất là du lịch, dịch vụ.

Bên cạnh những lợi ích và dự báo, việc  thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội những tháng cuối năm 2021 còn nhiều khó khăn, thách thức. Song với sự lãnh đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, căn cứ vào tình hình thực tế đã nhanh chóng đề ra các giải pháp khả thi để chuyển đổi có hiệu quả mô hình chiến lược chống dịch, từng bước mở cửa trở lại nền kinh tế, triển vọng phục hồi kinh tế trong thời gian tới các tháng trong năm sẽ rất khả quan.

Trong quá trình  khởi động và mở cửa lại nền kinh tế sau cao điểm chống dịch, các bộ, ngành, địa phương phải đảm bảo cung ứng tốt, đào tạo tốt nguồn nhân lực để đáp ứng  nhu cầu lao động cho các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tập trung thúc đẩy tăng trưởng trong các trụ cột đồng nghĩa với việc thúc đẩy phân bổ và giải ngân hiệu quả vốn đầu tư công, hỗ trợ xuất khẩu và tăng tiêu dùng nội địa.

Đối với động lực tăng trưởng xuất khẩu, cần hết sức quan tâm đến việc thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, tháo gỡ nút thắt trong luân chuyển hàng hóa, tổ chức triển khai kịp thời các gói hỗ trợ để kích thích tăng trưởng doanh nghiệp sản xuất và thương mại.

Theo đại biểu Quốc hội, một khi tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, các bộ, ngành địa phương cần quan tâm và áp dụng các biện pháp phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp kinh doanh, đi lại thúc đẩy các hoạt động du lịch, dịch vụ an toàn, đồng thời là động lực quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế  đất nước.

Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia  dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó.Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.

__________________________

 

Tìm đọc bài viết liên quan tại:

Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: 3 định hướng trong giai đoạn mới

Hội nhập kinh tế quốc tế: 5 cơ hội và thách thức đối với Việt Nam

Hội nhập kinh tế quốc tế là gì? Hình thức, cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế trong 2021?

Sinh viên thực hiện: Phí Tiến Bắc Hải

MSV: 19051072