-
Theo Bộ Công Thương Việt Nam, Hiệp định RCEP (Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực) sẽ chính thức có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2022.
- RCEP tiếp tục xây dựng dựa trên các hiệp định thương mại tự do trong ASEAN và sẽ dựa trên hội nhập kinh tế và định hình chính sách thương mại trong tương lai.
- Vì Việt Nam là thành viên của một số hiệp định thương mại do đó việc tham gia hiệp định RCEP sẽ giúp Việt Nam giảm bớt các rào cản thương mại và cải thiện khả năng tiếp cận thị trường cho hàng hóa của mình.
Nội dung bài viết
HIỆP ĐỊNH RCEP: MỘT VÀI THÔNG TIN CHÍNH
Các Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) thỏa thuận sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 1 2022, theo Bộ Công Thương. Nó diễn ra khi Úc và New Zealand trở thành các quốc gia thành viên mới nhất phê chuẩn hiệp định. Các quốc gia khác đã phê chuẩn RCEP bao gồm Brunei, Campuchia, Lào, Singapore, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản.
Trước đó, 15 quốc gia, bao gồm tất cả các thành viên ASEAN, Úc, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand đã ký Hiệp định RCEP vào ngày 15 tháng 11 năm 2020. Hiệp định thương mại tự do được coi là khối thương mại lớn nhất thế giới.
Thỏa thuận đã được thực hiện trong hơn tám năm và được ký kết hầu như tại Hội nghị Cấp cao ASEAN. RCEP để ngỏ cánh cửa cho Ấn Độ, quốc gia đã rút khỏi hiệp định thương mại do bất đồng về thuế quan nông nghiệp.
Mặc dù Trung Quốc là thành viên của một số hiệp định thương mại song phương, nhưng đây là lần đầu tiên nước này ký kết một hiệp ước thương mại đa phương khu vực.
Cũng giống như hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam (EVFTA), hiệp định thương mại tự do Anh-Việt (UKVFTA) và Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP, RCEP sẽ cắt giảm thuế quan và đặt ra các quy tắc thương mại, đồng thời giúp liên kết cung chuỗi , đặc biệt là khi các chính phủ vật lộn với các hiệu ứng COVID-19.
FTA dự kiến sẽ bao gồm tất cả các khía cạnh kinh doanh bao gồm thương mại, dịch vụ, thương mại điện tử, viễn thông và bản quyền mặc dù các cuộc đàm phán về một số khía cạnh vẫn cần được hoàn tất. Thuế quan dự kiến sẽ giảm trong vòng 20 năm.
Hiệp định RCEP đặt ra âm hưởng cho thương mại trong tương lai ở ASEAN. Nó sẽ tiếp tục xây dựng dựa trên các hiệp định thương mại trước đây trong ASEAN nhưng cũng bao gồm các hiệp định lần đầu tiên với các nước khác như Nhật Bản và Hàn Quốc. Trong bối cảnh này, thương mại trong ASEAN có thể không đáng kể.
HIỆP ĐỊNH RCEP VÀ SỐ LIỆU CHÍNH
Hiệp định RCEP bao gồm thị trường 2,3 tỷ dân và sản lượng toàn cầu 26,2 nghìn tỷ USD. Điều này chiếm khoảng 30 phần trăm dân số trên toàn thế giới và hơn một phần tư kim ngạch xuất khẩu trên thế giới. Giống như một số FTA của Việt Nam, hiệp định RCEP là một hiệp định thương mại hiện đại có tính đến các quốc gia có quy mô, dân số và GDP khác nhau.
Các tài liệu từ Ngân hàng Thế giới dự báo rằng các quốc gia tham gia RCEP sẽ có GDP tăng 1,5%. Các nhà kinh tế lưu ý rằng thỏa thuận này có thể bổ sung gần 200 tỷ USD cho nền kinh tế toàn cầu vào năm 2030. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là sẽ mất nhiều năm để thấy được lợi ích của RCEP và nó có thể không đáng kể như CPTPP và EVFTA đối với Việt Nam.
HIỆP ĐỊNH RCEP: CƠ HỘI CHO VIỆT NAM
Hiệp định RCEP đã được ký kết tại Hội nghị Cấp cao ASEAN do Việt Nam đăng cai tổ chức. Fitch Solutions lưu ý rằng đối với Việt Nam, các ngành hàng xuất khẩu chính dự kiến sẽ được hưởng lợi bao gồm CNTT, giày dép, nông nghiệp, ô tô và viễn thông.
Hiệp định FTA sẽ giúp Việt Nam tiếp cận các thị trường tiêu dùng lớn, gấp đôi quy mô của các thị trường trong CPTPP. Khi Việt Nam trở thành nhà sản xuất công nghệ cao, RCEP có thể giúp các doanh nghiệp trong nước tăng cường xuất khẩu và thu hút hàng hóa chất lượng cao cho người tiêu dùng.
Ngoài ra, với nhu cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như nông sản và thủy sản, Việt Nam có thể được hưởng lợi. Ngoài ra, việc đơn giản hóa các thủ tục như hải quan và quy tắc xuất xứ sẽ giúp giảm bớt tình trạng quan liêu, cho phép nhiều DNVVN tham gia hơn.
Theo các chuyên gia, với việc thiết lập nên các tiêu chuẩn và cơ chế thống nhất cho toàn bộ khu vực, Hiệp định RCEP sẽ mở thêm nhiều cơ hội kết nối thương mại và đầu tư của Việt Nam với các nền kinh tế thành viên. Đồng thời, tạo điều kiện cho các DN của Việt Nam tham gia sâu hơn, rộng hơn vào các chuỗi giá trị trong khu vực này. Tuy nhiên, để có thể tận dụng được các cơ hội kỳ vọng từ Hiệp định RCEP, trước hết, DN cần hiểu về Hiệp định, tiến trình, các cam kết cụ thể cũng như những tác động dự kiến của các cam kết này.
Theo dự tính, các nền kinh tế nằm trong hiệp định RCEP có quy mô 2,2 tỉ người – khoảng 30% dân số thế giới và là thị trường tạo ra 26.200 tỉ USD sản lượng toàn cầu – tương đương 30% của nền kinh tế toàn cầu. Do vậy, các DN Việt Nam cần phải tận dụng tốt cơ hội này.
Về thực trạng DN, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI) cho hay, một khảo sát của VCCI được thực hiện hồi năm 2020 cho thấy, tỉ lệ DN hiểu biết ở mức tương đối về các cam kết FTA của các DN Việt Nam trung bình chỉ đạt 23%. Các cam kết FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới như RCEP thường không dễ tìm hiểu do số lượng các cam kết đồ sộ, nội dung phức tạp.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 98% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, đóng góp vào 40% GDP, và do đó RCEP mang lại cơ hội đáng kể cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trong việc nâng cao chuỗi giá trị.
Đối với các nhà đầu tư hoạt động trên khắp ASEAN, Trung Quốc và các khu vực khác – RCEP đưa ra tin tốt. Thủ tục hải quan hợp lý, quy tắc xuất xứ thống nhất và khả năng tiếp cận thị trường được cải thiện sẽ giúp đầu tư vào nhiều địa điểm – một chiến lược đầu tư khả thi và hấp dẫn hơn nhiều và có khả năng đưa mô hình kinh doanh “ Trung Quốc + 1 ” lên hàng đầu.
Quy tắc xuất xứ chung sẽ giảm chi phí cho các công ty có chuỗi cung ứng trải dài khắp châu Á và có thể khuyến khích các công ty đa quốc gia đến các nước RCEP thiết lập chuỗi cung ứng trong toàn khối, do đó tăng cường hoạt động chuỗi giá trị toàn cầu trong khu vực.
HIỆP ĐỊNH RCEP: THÁCH THỨC CHO VIỆT NAM
Bên cạnh những cơ hội, thách thức cho Việt Nam từ hiệp định RCEP không hề nhỏ.
Thứ nhất là sức ép cạnh tranh hàng hoá. Bộ Công Thương cho biết, nhiều đối tác trong RCEP có cơ cấu sản phẩm tương tự Việt Nam nhưng năng lực cạnh tranh mạnh hơn. Hiện chất lượng, hàm lượng giá trị gia tăng của hầu hết sản phẩm Việt còn khiêm tốn.
Sức ép này không chỉ diễn ra trên thị trường xuất khẩu mà thị trường nội địa cũng tương tự. Theo bà Thu Trang, khi thị trường nội địa cũng phải mở theo RCEP, các hàng hoá có cơ cấu sản phẩm tương tự sẽ tràn vào Việt Nam. Hàng Việt phải cạnh tranh trực diện với các mặt hàng nhập khẩu từ RCEP, đặc biệt từ Trung Quốc.
Trung Quốc được xem là một trong những thách thức lớn từ các nước tham gia RCEP. Với lợi thế hàng hoá phong phú, giá rẻ, nền kinh tế tỷ dân này có thể gây ra những tổn thương đến sinh kế của người dân tại các nước khác. Đây được xem là một nguyên nhân chính khiến Ấn Độ, tháng 11 năm ngoái, quyết định rút khỏi RCEP.
New Delhi từng nhiều lần bày tỏ lo ngại về RCEP, thoả thuận quy định hạ thấp hàng rào thuế quan, sẽ khiến hàng hoá Trung Quốc ngập tràn thị trường Ấn. Trong khi đó, hàng hoá Ấn Độ lại không đảm bảo được sự tiếp cận tương tự tại Trung Quốc, khiến thâm hụt thương mại gia tăng. Năm 2018, thâm hụt thương mại với Trung Quốc của Ấn Độ ở mức “khổng lồ”, gần 58 tỷ USD trong tổng kim ngạch thương mại hai chiều 95,5 tỷ USD.
Trong khi đó, người Việt lại khá ưa chuộng hàng ngoại. Đại diện MM Mega Market cho biết, sản phẩm đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… rất được quan tâm do bao bì bắt mắt, chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Những mặt hàng đóng gói như bánh kẹo, mỳ gói, sữa, ngũ cốc hay thực phẩm đông lạnh.
“Nhóm tiêu dùng trẻ có yêu cầu khắt khe, sẵn sàng trải nghiệm sản phẩm mới, đang ngày một tăng, nhu cầu tiêu thụ các hàng hoá nhập ngoại cũng sẽ tăng mạnh ở Việt Nam trong thời gian tới”, bà Nga nói.
Thứ hai, hàng hoá Việt vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các nguồn nhập khẩu, trong khi khả năng cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị, mức độ tham gia cung cấp thương mại dịch vụ toàn cầu còn khiêm tốn.
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng cũng không nên quá lo lắng trước những thách thức này. Với các nước ASEAN, theo bà Trang, hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam từ khu vực này đã được hưởng thuế suất 0% với gần như toàn bộ biểu thuế từ 2018. Mức độ phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ nước ngoài, đặc biệt là từ Trung Quốc, của các nước ASEAN lại không nặng như Việt Nam. Do đó RCEP hầu như không làm thay đổi lợi thế của họ trong tận dụng ưu đãi thuế quan từ hiệp định mới so với các FTA đã có.
“Nếu có nguy cơ nào đó từ ASEAN đối với thị trường nội địa Việt Nam, nguy cơ đó đã có thể xảy ra từ 3 năm nay rồi chứ không phải chờ tới RCEP”, bà nói.
Với nguồn Trung Quốc, RCEP càng không mang lại thêm lợi thế nào cho hàng Trung Quốc ở Việt Nam từ góc độ quy tắc xuất xứ so với hiệp định giữa ASEAN và Trung Quốc (ACFTA) đang có. Dù thừa nhận ngoài chuyện xuất xứ còn có nguy cơ gia tăng nhập khẩu do tăng mua nguyên phụ liệu từ Trung Quốc để sản xuất hàng xuất khẩu tận dụng ưu đãi thuế quan trong RCEP, bà Trang cho rằng điều này cũng không chắc sẽ dẫn tới tình trạng gây “ngập lụt” thị trường nội địa.
Nguyên nhân là với không ít ngành sản xuất, nếu đã có thể lựa chọn nguồn cung khác ngoài Trung Quốc, doanh nghiệp đã lựa chọn từ lâu, để hưởng ưu đãi thuế quan theo các FTA khác.
“Với mức độ tự do hoá và mở cửa thị trường mạnh từ các FTA đã có, thị trường, doanh nghiệp nội địa đã được tôi luyện, không tới nỗi không đón nổi cơn gió lớn RCEP”, bà Trang nói.
Như vậy, theo bà Trang, thách thức lớn nhất của Việt Nam trong hiệp định RCEP cũng không khác biệt lắm so với các FTA trước đây. Đó là làm thế nào để hiện thực hóa cơ hội, để các doanh nghiệp hiểu được các cơ hội đặc biệt từ hiệp định RCEP, từ đó tận dụng chúng một cách hiệu quả. “Thách thức không mới nhưng giải pháp lại không dễ dàng”, bà nói.
Khác biệt trong thách thức với các FTA khác, nếu có, đó là việc cạnh tranh trực diện trong hiệp định RCEP sẽ phức tạp hơn tại thị trường xuất khẩu và nội địa. Ví dụ ở Nhật Bản, trước hiệp định RCEP, Trung Quốc chưa có FTA nào, trong khi Việt Nam có tới 3. Như vậy sau hiệp định RCEP, hàng Trung Quốc sẽ được hưởng ưu đãi ở Nhật Bản, do đó hàng hóa Việt Nam cũng sẽ phải chịu cạnh tranh gay gắt hơn ở thị trường nước này.
“Doanh nghiệp xuất khẩu mặc dù được dự báo sẽ có lợi thế trong hiệp định RCEP nhưng cũng phải sẵn sàng chuẩn bị cho tình huống cạnh tranh mới”, bà Trang nhấn mạnh.
Theo đánh giá của đại diện VCCI, không lo ngại có sự chồng chéo khi 7/15 thành viên gồm Brunei, Malaysia, Singapore, Việt Nam và Nhật Bản, New Zealand, Australia tham gia cả hiệp định RCEP lẫn Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
“Cứ thêm một FTA là thêm một con đường ưu tiên trong giao thương với cùng một đối tác. Những con đường này không loại trừ lẫn nhau, con đường nào phù hợp với trình độ, nhu cầu của mình thì đi theo nó”, bà Trang nói.
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh thì nhận định, hiệp định RCEP được xây dựng phù hợp ngay cả với một số quốc gia kém phát triển của ASEAN. Vì vậy, không gian kinh tế rộng hơn, dân số lớn hơn nhưng RCEP vẫn có sự linh hoạt cho các nước tham gia.
Dù thừa nhận chuẩn mực của CPTPP cao hơn, Bộ trưởng Tuấn Anh cho rằng, với những nước đã tham gia hiệp định như Việt Nam, điều này là lợi thế, vì không phải trả giá thêm cho những yêu cầu của hiệp định RCEP. “Ngược lại, chúng ta lại được hưởng lợi ích khi các đối tác RCEP thực hiện cam kết”, ông nhấn mạnh.
Tham khảo thêm các thông tin về Kinh Tế Quốc Tế và Hiệp định RCEP tại:
FDI tại Việt Nam – 3 vai trò quan trọng của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Cơ hội và áp lực nào cho Việt Nam trước ngưỡng cửa RCEP?
HOT NEWS : TESLA BẤT NGỜ TIẾT LỘ BÍ QUYẾT KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO SỐ 1 THẾ GIỚI
Người viết: Nguyễn Thị Anh Thơ
MSV: 20050037
INE3104 3_Bài tập lớn