Ưu, nhược điểm và 5 Vai trò của ODA đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã thực hiện chiến lược phát triển kinh tế theo hướng mở rộng và đa dạng hóa các quan hệ kinh tế quốc tế. Một trong những mục tiêu chính của chiến lược này là thu hút vốn ODA để phát triển kinh tế. Vậy ODA là gì? ODA có những ưu, nhược điểm gì? Và ODA có vai trò như thế nào đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam? Hãy cùng bài viết tìm hiểu nhé.

Vốn ODA là gì?

ODA
Official Development Assistance

Hỗ trợ phát triển chính thức hay ODA (viết tắt của cụm từ Official Development Assistance) là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay.

Nói cách khác, vốn ODA là nguồn tiền mà chính phủ, các cơ quan chính thức của các nước hoặc các tổ chức phi chính phủ, quốc tế cho các nước đang phát triển, kém phát triển vay để phát triển kinh tế – xã hội.

Ưu điểm của ODA

  • Đây là nguồn vốn vay có lãi suất thấp, thường dưới 2%/năm (trung bình khoảng 0.25%/năm). Vì thế đây là một nguồn vốn quan trọng đối với các nước đang và kém phát triển để phát triển kinh tế – xã hội
  • Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn vay dài (thường từ 25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn vay 8-10 năm).
  • Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA.
  • ODA là nguồn vốn rất quan trọng cho các nước chậm và đang phát triển để có thể ổn định đời sống xã hội và phát triển kinh tế.

Nhược điểm của ODA

Bên cạnh những ưu điểm vượt trội của nguồn vốn ODA này, chúng ta không thể không nhìn nhận về một khía cạnh khác đó chính là những bất lợi mà nó gây ra.

  • Về kinh tế, nước tiếp nhận hỗ trợ phát triển chính thức gần như phải dỡ bỏ dần dần hàng rào thuế quan bảo hộ đối với ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận nguồn vốn này cũng sẽ được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho chính những danh mục hàng hoá mới của nước đưa vốn ODA; hoặc đưa ra các yêu cầu với những ưu đãi cho các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao.
  • Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới).
  • Nguồn vốn viện trợ còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp vốn buộc nước tiếp nhận vốn phải chấp nhận một khoản viện trợ là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
  • Thực tế, dù nước tiếp nhận nguồn hỗ trợ phát triển chính thức có toàn quyền quản lý sử dụng nguồn vốn đó nhưng các danh mục dự án hỗ trợ phát triển chính thứuc cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
  • Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên đây là một điểm bất lợi cho nước nhận (ODA tính bằng ngoại tệ mạnh, nhưng đồng tiền nước nhận viện trợ thường mất giá mạnh, nhưng đồng tiền nước nhận viện trợ thường mất gí rất lớn vì vậy đến khi trả nợ, giá trị phải trả cũng rất lớn)
  • Trong quá trình sử dụng vốn, sẽ xảy ra tình trạng tham nhũng, thất thoát, lãng phí; việc xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút đầu tư và sử dụng nguồn vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý yếu kém, thiếu kinh nghiệm trong việc tiếp nhận, xử lý, điều hành dự án khiến cho chất lượng công trình, hiệu quả của công trình của dự án đầu tư này còn thấp, có nguy cơ đẩy càng nước đang và kém phát triển lâm vào tình trạng nợ nần.

Như vậy, tính hai mặt ODA sẽ là cứu cánh cho quốc gia nghèo nếu sử dụng hiệu quả, nhưng sẽ vô cùng tai hại nếu sử dụng không hiệu quả hoặc để tình trạng tham nhũng lãng phí xảy ra.

Vai trò của ODA đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam

Thứ nhất, ODA là nguồn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển:

Hỗ trợ phát triển chính thức đã trở thành một nguồn vốn bên ngoài quan trọng để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Bên cạnh các khoản đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế – kỹ thuật, một lượng lớn vốn viện trợ đã được sử dụng để đầu tư phát triển lĩnh vực giáo dục và y tế, hỗ trợ phát triển ngành nông nghiệp. Nguồn viện trợ được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành nguồn lực bổ sung cho đầu tư tư nhân. Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam châm “hút” đầu tư tư nhân theo tỉ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ. Đối với những nước đang trong tiến trình cải cách thể chế, ODA còn góp phần củng cố niềm tin của khu vực tư nhân vào công cuộc đổi mới của đất nước.

Thứ hai, ODA giúp tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực: 

ODA
Lễ ký công hàm trao đổi khoản ODA vốn vay của CP Nhật Bản cho Việt Nam tài khóa 2014

Thông qua những dự án hỗ trợ phát triển chính thức, các nhà tài trợ đã có các hoạt động giúp Việt Nam nâng cao trình độ khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực như: cung cấp tài liệu kỹ thuật, tổ chức hội thảo có sự tham gia của nhiều chuyên gia nước ngoài, cử cán bộ Việt Nam du học nước ngoài,…Từ đó sẽ đóng góp không nhỏ vào việc nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam. Đây cũng được coi là lợi ích căn bản, lâu dài đối với Việt Nam.

Thứ ba, ODA giúp cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế:

Những dự án ODA mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực, tạo điều kiện cho việc phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả nước. Ngoài ra còn có một số dự án giúp Việt Nam cải cách hành chính, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước cùng được nâng cao. Tất cả những điều đó đã góp phần đáng kể vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Việt Nam.

Thứ tư, ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng đầu tư phát triển:

ODa

Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định rót vốn đầu tư vào một nước thì điều đầu tiên họ quan tâm đến đó chính là khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại quốc gia đó. Vì thế mà đầu tư của Chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây mới các cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng là điều vô cùng cần thiết giúp cho môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn.

Thứ năm, ODA giúp tăng cường năng lực thể chế:

ODA giúp các nước đang phát triển ở đây là Việt Nam tăng cường năng lực thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế.

Kết Luận

Như vậy, nguồn vốn ODA không chỉ bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển mà còn có vai trò nâng cao trình độ khoa học, công nghệ, giúp điều chỉnh cơ cấu kinh tế và làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn FDI, đóng góp quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

                                                                                                             Người thực  hiện: Nguyễn Phương Thảo

                                                                                                             MSV : 19051212

                                                                                                             INE3104-6 _ Bài tập lớn