Giải pháp phát triển xanh cho ngành kinh tế của Việt Nam

Phát triển xanh là nội dung quan trọng của phát triển bền vững và là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường, đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại, nhưng không làm ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai

Khái niệm phát triển xanh

1. Khái niệm phát triển xanh

Với sự phát triển của khoa học, công nghệ, những đột phá của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem đến nhiều cơ hội cho tăng trưởng. Xu hướng đầu tư cho các hoạt động sản xuất thông minh, xây dựng chính phủ điện tử, đô thị thông minh, công nghiệp và nông nghiệp thông minh… đã và đang trở nên phổ biến. Nhìn lại, tăng trưởng kinh tế đã tạo ra nhiều đột phá lớn nhưng chưa dẫn đến sự tiến bộ trên diện rộng. Mô hình khai thác tài nguyên thiên nhiên ở quy mô không bền vững gây ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường, suy giảm đa dạng sinh học, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu… kéo theo nhiều vấn đề xã hội phức tạp khác, ảnh hưởng đến cơ hội kinh tế cho các thế hệ tương lai.

Để giải quyết bài toán này, phát triển xanh trở thành một lựa chọn tất yếu và là mục tiêu mà mọi quốc gia đang hướng tới. Đây là cách tiếp cận mới trong tăng trưởng kinh tế, hướng tới sự phát triển hài hòa kinh tế – xã hội với phục hồi và bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên.

Khái niệm “phát triển xanh” được nhiều tổ chức trên thế giới đưa ra. Theo Ủy ban Liên hợp quốc về kinh tế – xã hội khu vực châu Á – Thái Bình Dương (UNESCAP): Phát triển xanh là Chiến lược để đạt được phát triển bền vững. Phát triển xanh là chủ trương tăng trưởng GDP mà duy trì hoặc khôi phục lại chất lượng và tính toàn vẹn của môi trường sinh thái, đồng thời đáp ứng các nhu cầu của tất cả mọi người với mức thấp nhất có thể tác động đến môi trường. Cách tiếp cận này tìm kiếm sự hài hòa về tăng trưởng kinh tế và bền vững môi trường bằng cách thúc đẩy những thay đổi cơ bản trong sản xuất và tiêu thụ của xã hội.

Tổ chức Sáng kiến Tăng trưởng xanh của Liên hợp quốc cho rằng: Phát triển xanh hay xây dựng nền kinh tế xanh là quá trình tái cơ cấu lại hoạt động kinh tế và cơ sở hạ tầng để thu được kết quả tốt hơn từ các khoản đầu tư cho tài nguyên, nhân lực và tài chính, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính, khai thác và sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn và giảm sự mất công bằng trong xã hội.

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): Phát triển xanh là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng thời bảo đảm rằng các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta. Để thực hiện điều này, phát triển xanh phải là nhân tố xúc tác trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng trưởng bền vững, tạo ra các cơ hội kinh tế mới. 

Ngân hàng Thế giới (WB) khái niệm: Phát triển xanh là hiệu quả trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu tối đa ô nhiễm và các tác động môi trường, có khả năng thích ứng trước các hiểm họa thiên nhiên, vai trò của quản lý môi trường, vốn tự nhiên trong việc phòng ngừa thiên tai…

Định nghĩa phát triển xanh của Việt Nam: Phát triển xanh là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.

Như vậy, khái niệm về phát triển xanh khác nhau phản ánh mỗi quốc gia, tổ chức có những tầm nhìn khác nhau về phát triển xanh phù hợp với điều kiện, sứ mệnh và định hướng của chính quốc gia, tổ chức mình.

 2. Kinh nghiệm phát triển xanh của một số quốc gia

phát triển

Tại Hàn Quốc, Chiến lược phát triển xanh được Hội đồng quốc vụ thông qua tháng 9/2008. Để cụ thể hóa, Chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành một loạt các hành động, bao gồm: Gói kích cầu “Hiệp định phát triển xanh mới”, “Kế hoạch Nghiên cứu và phát triển toàn diện về công nghệ xanh”. Luật khung về phát triển xanh cũng được Chính phủ Hàn Quốc công bố thi hành vào tháng 01/2010. Hàn Quốc xây dựng công nghệ xanh bao gồm các nguồn năng lượng mới và tái sinh, năng lượng có hàm lượng carbon thấp, quản lý nước công nghệ cao, ứng dụng công nghệ LED, hệ thống giao thông tiết kiệm năng lượng và thành phố xanh công nghệ cao. Công nghiệp công nghệ cao tập trung vào các lĩnh vực như kết hợp viễn thông, công nghệ thông tin, ứng dụng robot, vật liệu mới và công nghệ nano, dược phẩm sinh học, y học công nghệ cao và công nghiệp thực phẩm có giá trị gia tăng cao. Ngoài ra, Chính phủ Hàn Quốc còn đẩy mạnh các chương trình sử dụng năng lượng sinh khối, xây dựng mô hình “nhà ở, trường học và công sở xanh”.

Mỹ là một trong những nước tiếp cận sớm chính sách phát triển xanh để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo đó, Chính phủ Mỹ đã thực hiện các chính sách mới nhằm phát triển nền kinh tế thông qua phát triển năng lượng, thực hiện chính sách tiết kiệm năng lượng, giảm bớt ô nhiễm môi trường và thực hiện chính sách tái tạo năng lượng. Trong Chiến lược tiết kiệm năng lượng, Chính phủ Mỹ đặt mục tiêu đến năm 2025, các nguồn năng lượng tái tạo sẽ chiếm khoảng 25% lượng phát điện và đến năm 2030 nhu cầu điện trung bình sẽ giảm 15%. Nhằm đạt được các mục tiêu này, Chính phủ Mỹ đã thành lập Cơ quan Triển khai năng lượng sạch (CEDA) thuộc Bộ Năng lượng, có chức năng như một “ngân hàng xanh” để huy động và giải ngân vốn đầu tư cho các chương trình năng lượng sạch. Ngoài ra, Chính phủ Mỹ đã thông qua một loạt tiêu chuẩn mới về khí thải như yêu cầu các công ty sản xuất ô tô chuyển sang các mẫu xe kết hợp sử dụng cả điện và xăng dầu, cùng với việc cải tiến các động cơ để tiết kiệm nhiên liệu.

 

Đan Mạch với mục tiêu tham vọng trở thành “quốc gia xanh nhất” tại châu Âu và trên thế giới. Theo Chiến lược năng lượng đến 2035, Đan Mạch sẽ hoàn toàn từ bỏ sử dụng nguyên liệu hóa thạch trong ngành công nghiệp năng lượng. Tất cả năng lượng điện và năng lượng nhiệt sẽ được cung cấp bởi các nguồn nhiêu liệu tái tạo. Để hiện thực hóa tham vọng của mình, Đan Mạch đã thông qua mức thuế đặc biệt với việc xử lý chất thải, bao gồm cả mức phí xử lý chất thải xây dựng. Đồng thời, chi tiêu công cho các sản phẩm hàng hóa do nhà nước điều chỉnh nhằm giảm thiểu lượng rác sinh hoạt và việc sản xuất quá nhiều bao bì hàng hóa. 

Tại Nam Phi, để thực hiện những mục tiêu xanh hóa nền kinh tế trong Chiến lược quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, Chính phủ đã đặt ra những mục tiêu giảm bớt tỷ lệ carbon trong hoạt động sản xuất, như giảm lượng phát thải 34% vào năm 2020 và 42% vào năm 2025. Trong Chiến lược quốc gia về phát triển bền vững và Kế hoạch hành động, Chính phủ Nam Phi xác định 05 ưu tiên chiến lược, gồm: (i) Tăng cường các hệ thống kết hợp lập kế hoạch với triển khai thực hiện; (ii) Bảo tồn hệ sinh thái quốc gia và sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hiệu quả; (iii) Chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh; (iv) Xây dựng cộng đồng phát triển bền vững; (v) Thực hiện ứng phó một cách hiệu quả với biến đổi khí hậu. Ngoài ra, Chính phủ Nam Phi đã phát triển một loạt các sáng kiến về quản trị xanh nhằm thiết lập các quy định mang tính nguyên tắc, bao gồm: Yêu cầu các quỹ hưu trí phải xem xét các rủi ro về môi trường, xã hội và quản trị như là một phần trong quá trình xem xét đầu tư; Bộ Quy tắc hướng dẫn đầu tư có trách nhiệm cho các ngành công nghiệp tại Nam Phi; quy định yêu cầu các công ty niêm yết cung cấp các báo cáo tổng hợp về hiệu quả cũng như rủi ro xã hội và môi trường.

 3. Tiếp cận phát triển xanh tại Việt Nam

tiếp cận
tiếp cận

Đối với Việt Nam, phát triển xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững và là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường. Việt Nam là một trong những quốc gia bị tác động nặng nề bởi biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và nhiều yếu tố tác động từ bên ngoài. Việt Nam đang trên đà đổi mới, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, chất lượng và hiệu quả. 

Ngay từ năm 2012, phát triển xanh đã được cụ thể hóa thông qua Chiến lược quốc gia về phát triển xanh thời kỳ 2011 – 2020, tầm nhìn đến năm 2050. Đây được coi là chìa khóa nhằm bảo đảm cho các mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020. Vấn đề giảm phát thải nhà kính, xanh hóa sản xuất, xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững được đặt ra thông qua thực hiện 17 nhóm giải pháp. Trong đó, tập trung vào truyền thông, nâng cao nhận thức, huy động nguồn lực để thực hiện Chiến lược; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; nghiên cứu và triển khai khoa học và công nghệ; nâng cao hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng; giảm mức tiêu hao năng lượng trong hoạt động sản xuất, thực hành tiêu dùng bền vững…

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về phát triển xanh giai đoạn 2014 – 2020 (Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014), gồm 12 nhóm hoạt động với 66 nhiệm vụ hành động cụ thể theo 04 chủ đề chính: Xây dựng thể chế quốc gia và kế hoạch phát triển xanh tại địa phương, bao gồm 08 hoạt động theo 02 nhóm; giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo với 20 hoạt động theo 04 nhóm; thực hiện xanh hóa sản xuất với 25 hoạt động theo 04 nhóm; thực hiện xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững với 13 hoạt động theo 02 nhóm.

Cùng với đó, Quốc hội đã ban hành mới, bổ sung, sửa đổi một số luật liên quan đến phát triển xanh như: Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; Luật Phòng, chống thiên tai; Luật Bảo vệ môi trường; Luật Khí tượng thủy văn. Một số văn bản pháp quy mới đã được xây dựng nhằm thúc đẩy thực hiện các hoạt động liên quan tới phát triển xanh.

Năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược quốc gia về phát triển xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050” (Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021), trong đó, đề ra các mục tiêu chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa các ngành kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn thông qua khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và năng lượng dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số, phát triển kết cấu hạ tầng bền vững để nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát huy lợi thế cạnh tranh và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.

Sự xuất hiện của đại dịch Covid-19 là một biến cố lớn của nhân loại, tạo ra khủng hoảng trên diện rộng, làm thay đổi thế giới trên nhiều lĩnh vực. Kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh, hạn chế tác động và phục hồi sau suy thoái kinh tế là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia. Đây cũng là cơ hội để các quốc gia đánh giá lại các mô hình phát triển kinh tế, nâng cao nhận thức cộng đồng về các mối đe dọa nghiêm trọng từ các vấn đề môi trường và sức khỏe, cũng như tận dụng những thay đổi từ đại dịch. Trong bối cảnh đó, Việt Nam tiếp tục khẳng định cam kết quốc tế thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững 2030 và Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.

 4. Thực trạng phát triển xanh của Việt Nam thời gian qua

4.1. Những kết quả đạt được

kết quả

Qua gần 10 năm triển khai Chiến lược phát triển xanh, nhận thức của Nhân dân, cộng đồng về vai trò, ý nghĩa của phát triển xanh đã được nâng lên rõ rệt, từng bước thay đổi hành vi sản xuất, sinh hoạt và có nhiều hành động thiết thực đóng góp vào thực hiện phát triển xanh; xuất hiện nhiều mô hình sản xuất và tiêu dùng tiết kiệm, an toàn, văn minh, mang đậm bản sắc dân tộc, hài hòa và thân thiện với thiên nhiên; cảnh quan, môi trường sống của người dân ngày càng thay đổi theo hướng tích cực hơn, đặc biệt tại các xã nông thôn mới.

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế nhằm hiện thực hóa các mục tiêu phát triển xanh đã đạt được nhiều kết quả nổi bật: Đã có 08 bộ và 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành Kế hoạch hành động để triển khai Chiến lược thời kỳ 2011 – 2020. Từ các Kế hoạch hành động trên, nội dung phát triển xanh đã được nghiên cứu, tích hợp vào nhiều Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, các luật, nghị định, thông tư trong từng lĩnh vực cụ thể, tạo hành lang pháp lý để thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược thời kỳ 2011 – 2020.

Một số mục tiêu, nhiệm vụ, chỉ tiêu chính của Chiến lược phát triển xanh thời kỳ 2011 – 2020 đã đạt được kết quả khả quan như: Các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính được triển khai rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực, lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng giảm 12,9% so với phương án phát triển bình thường; tiêu hao năng lượng tính trên GDP giảm bình quân 1,8%/năm; tỷ lệ doanh nghiệp công nghiệp có nhận thức về sản xuất sạch hơn đã tăng từ 28% năm 2010 lên 46,9% năm 2020; tỷ lệ che phủ rừng năm 2020 đạt 42%; dư nợ tín dụng xanh đạt gần 238 nghìn tỷ đồng năm 2018 (tăng 235% so với năm 2015)… Hoạt động xanh hóa sản xuất, bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên, tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm đã được chú trọng. Nhận thức về vai trò của phát triển xanh được nâng lên; tạo được làn sóng về đầu tư xanh như năng lượng gió, mặt trời, điện rác…

4.2. Một số khó khăn, thách thức

thách thức khó khăn

Tuy nhiên, nhìn nhận lại chặng đường vừa qua, đánh giá chung của Chính phủ và các tổ chức nghiên cứu quốc tế cho thấy, kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa ổn định bởi sự phát triển còn dựa nhiều vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, vốn đầu tư, thâm dụng lao động, sử dụng tài nguyên, năng lượng chưa hiệu quả, ô nhiễm môi trường gia tăng, cường độ phát thải khí nhà kính cao…

Bên cạnh đó, việc chuyển đổi nền kinh tế theo hướng phát triển xanh ở Việt Nam cũng gặp một số khó khăn, thách thức:

Tăng trưởng xanh mặc dù được nhiều địa phương quan tâm, nhiều doanh nghiệp ứng dụng nhưng tầm quan trọng vẫn chưa thực sự được đề cao so với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính vì thế, phần lớn người dân và doanh nghiệp chưa có nhận thức đầy đủ về sự cấp thiết của phát triển xanh. Đây được coi là điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa. Bên cạnh đó, nhu cầu tài chính để triển khai thực hiện các hoạt động phát triển xanh trong bối cảnh nguồn ngân sách nhà nước hạn hẹp, sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế giảm dần cũng đang là một thách thức lớn.

Hệ thống pháp luật đang trong quá trình tiếp tục xây dựng hoàn thiện nên chưa đồng bộ, chưa thật phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và hướng tới phát triển xanh. Việc tổ chức quản lý chiến lược về phát triển ngành, vùng, địa phương trên phạm vi cả nước còn rời rạc, cục bộ. Do lối tư duy với tầm nhìn ngắn hạn, trước mắt nên hiện tượng chạy đua xây dựng các khu công nghiệp, các nhà máy, bến cảng, sân golf, thủy điện… trong khi không tính tới hiệu quả kinh tế – xã hội, không đánh giá tác động môi trường một cách thấu đáo đã trở thành phổ biến tại các địa phương.

Năng lực phát triển công nghệ của Việt Nam còn rất thấp, công nghệ sản xuất cũ, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh không cao; công nghệ sản xuất năng lượng tái tạo chưa phát triển; trình độ khoa học – công nghệ, hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn thấp.

Tài nguyên thiên nhiên bị suy thoái nghiêm trọng do phương thức tăng trưởng còn nặng theo chiều rộng, sử dụng năng lượng hóa thạch và nguyên liệu đầu vào, trong khi trình độ sử dụng công nghệ mới để giảm tiêu hao vật chất còn thấp, việc quản lý tài nguyên còn hạn chế…

 5. Giải pháp thực hiện phát triển xanh trong thời gian tới

giải pháp

Việc chuyển hướng sang kinh tế xanh và phát triển xanh, cập nhật Chiến lược phát triển xanh cho phù hợp với định hướng phát triển mới của đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030, Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025 là một lựa chọn tất yếu và là cơ hội lớn để Việt Nam có thể trở thành một quốc gia tiên phong trong khu vực về phát triển xanh, phục hồi xanh, bắt kịp xu thế phát triển của thế giới. Việt Nam phải vượt qua thách thức phục hồi trong và sau dịch bệnh Covid-19, tiếp tục đà đổi mới, đẩy mạnh mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, chất lượng và hiệu quả. Quan điểm của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học và công nghệ, đổi mới và sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa – xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Định hướng chung của Chiến lược quốc gia về phát triển xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050 là tập trung nỗ lực cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, giảm cường độ phát thải khí nhà kính thông qua khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng, tài nguyên dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số, phát triển kết cấu hạ tầng xanh, bền vững, xây dựng lối sống xanh, bảo đảm quá trình chuyển đổi xanh theo nguyên tắc, bình đẳng, bao trùm, nâng cao năng lực chống chịu trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Để thực hiện có hiệu quả Chiến lược, một số giải pháp cụ thể thực hiện phát triển xanh trong thời gian tới được đề xuất như sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức, đổi mới mô hình tăng trưởng

Cần nhận thức rõ, tiếp cận với phát triển xanh không chỉ là lồng ghép trong các quyết định phát triển mà phải coi đây là một chỉnh thể thống nhất với các thành phần của phát triển bền vững. Từ nâng cao nhận thức về lợi ích của phát triển xanh, vai trò thực hiện, tầm quan trọng của nhiệm vụ để tiếp tục hình thành các kế hoạch hành động, dự án cụ thể ứng phó với biến đổi khí hậu và tạo động lực cho phát triển xanh. Các bộ, ngành, địa phương cần nhanh chóng rà soát quy hoạch, áp dụng, lồng ghép Chiến lược quốc gia về phát triển xanh vào các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế – xã hội, tiếp tục xây dựng lộ trình cụ thể, kịch bản các hoạt động phát triển xanh, gắn kết chỉ tiêu phát triển xanh trong hệ thống chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, chiến lược ngành. 

Các doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong phát triển xanh bởi họ là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế, cần xác định rõ những thách thức và cơ hội, bảo đảm tuân thủ các quy định về môi trường, đổi mới công nghệ và nâng cao hiệu quả sản xuất, sắp xếp lại cơ cấu, hạn chế phát triển những ngành kinh tế phát sinh chất thải lớn, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên; hình thành đội ngũ doanh nhân “xanh” của đất nước. Do đó, cần thiết phải xây dựng và thực hiện các dự án truyền thông, tuyên truyền nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và cộng đồng về thực hiện phát triển xanh, góp phần xây dựng đất nước phát triển bền vững.

Tuyên truyền sâu rộng để Nhân dân tham gia sâu hơn trong nền kinh tế xanh, các chuỗi của phát triển xanh, trước hết là với lối sống xanh, tiêu dùng xanh kết hợp với nếp sống đẹp truyền thống để tạo nên đời sống chất lượng cao, hòa hợp với thiên nhiên.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp lý cho phát triển xanh

Tiếp tục hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp lý cho toàn bộ các lĩnh vực, đặc biệt là các lĩnh vực chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển xanh. Tăng trưởng xanh phải là động lực chính để phát triển bền vững và là công cụ hữu hiệu giúp Chính phủ cân đối nguồn lực trong nước và quốc tế hiệu quả, gắn kết chặt chẽ với các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội bền vững.

Trong nhóm giải pháp về thể chế, chính sách, các bộ, ngành, địa phương cần hoàn thiện khung cơ chế, chính sách, pháp luật theo hướng phối hợp liên vùng, liên ngành và tích hợp các mục tiêu, giải pháp phát triển xanh để thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tối ưu hóa nguồn lực, đặc biệt trong xây dựng hạ tầng đa mục tiêu.

Đồng thời, cần đẩy mạnh áp dụng các công cụ kinh tế xanh đối với hoạt động sản xuất và tiêu dùng, hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí phân loại xanh quốc gia đảm bảo tính thống nhất, minh bạch, cập nhật thường xuyên cho các chương trình, dự án, sản phẩm, dịch vụ, công nghệ và ngành nghề. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong giám sát, đánh giá thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển xanh và mức độ xanh hóa của nền kinh tế.

Thứ ba, đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư cho phát triển xanh

Trên thực tế, thực hiện phát triển xanh đòi hỏi nguồn lực rất lớn để thực hiện các dự án đầu tư cho đổi mới công nghệ, quy hoạch, phát triển hạ tầng cơ sở… nhằm phục vụ việc triển khai thực hiện. Trong khi đó, nguồn lực trong nước, đặc biệt là ngân sách Nhà nước cho phát triển xanh là rất hạn chế. Theo nghiên cứu của WB, Quỹ Phát triển Liên hợp quốc về huy động nguồn vốn cho biến đổi khí hậu và phát triển xanh, nguồn vốn đầu tư công của Việt Nam cho việc chống biến đổi khí hậu và các mục tiêu phát triển xanh hiện chỉ chiếm 0,1% GDP.

Tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và WB cho thấy, để thực hiện Chiến lược phát triển xanh đến năm 2030, dự kiến cần khoảng 30 tỷ USD, trong đó ngân sách Nhà nước chỉ có thể đáp ứng tối đa 30% nguồn lực và cần tới 70% từ các nguồn khác, trong đó chủ yếu là khu vực tư nhân. Theo đó, nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước chủ yếu tập trung vào các chương trình đầu tư giao thông công cộng của ngành giao thông cho các thành phố lớn, các đường cao tốc; các chương trình, dự án hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực, thể chế chính sách giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, hỗ trợ đầu tư tư nhân, dự án thí điểm. Trong kế hoạch đầu tư công trung hạn, Chương trình mục tiêu cho biến đổi khí hậu và giai đoạn 2016 – 2020 phân bổ khoảng 15.800 tỷ đồng, trong đó 30% cho phát triển xanh. Có thể nói, nguồn lực công đang bị phân tán cho rất nhiều mục tiêu ưu tiên khác nhau nên phần dành cho phát triển xanh hiện rất hạn hẹp.

Trong khi đó, nguồn đầu tư tư nhân cho phát triển xanh mang tính quyết định, đảm bảo thành công trong thực hiện Chiến lược phát triển xanh, bao gồm: Các dự án đầu tư của doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp trong nước, hộ sản xuất, hộ gia đình. Tổng vốn đầu tư cho mục tiêu này hiện đạt gần 2,5 tỷ USD, chủ yếu tập trung vào năng lượng tái tạo và một phần hiệu quả năng lượng. Các chuyên gia kinh tế nhận định, trong bối cảnh nguồn đầu tư công ngày càng hạn hẹp và phải trang trải cho nhiều nhu cầu chi tiêu công cấp bách, vai trò của nguồn đầu tư tư nhân ngày càng được đánh giá cao trong việc xanh hóa nền kinh tế Việt Nam, bởi trên 40% GDP được đóng góp từ khu vực tư nhân. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đầu tư công không phải là nguồn vốn chủ đạo đối với nỗ lực thực hiện chống biến đổi khí hậu hay phát triển xanh. Chẳng hạn, để thúc đẩy khu vực tư nhân đóng góp nhiều hơn cho phát triển xanh và bền vững tại Việt Nam, Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) đã cung cấp khoản cho vay dài hạn trị giá 100 triệu USD cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Đông. Mục đích của khoản tín dụng này là hỗ trợ mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là thúc đẩy tài trợ cho các dự án thân thiện với khí hậu tại Việt Nam, tạo ra những lựa chọn mới cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn tín dụng xanh thông qua việc nâng cao hiệu quả nền tảng ngân hàng công nghệ số và phát triển các sản phẩm theo nhu cầu của phân khúc này.Tuy nhiên, với không ít doanh nghiệp, đầu tư cho sản xuất xanh vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là về nguồn vốn. Khối doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp một số khó khăn nhất định trong việc tiếp cận với các nguồn vốn từ ngân hàng thương mại cho các dự án đổi mới, thay thế công nghệ và thiết bị có hiệu năng sử dụng năng lượng cao. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến cuối năm 2021, có 67 tổ chức tín dụng tham gia cho vay các dự án xanh ở các lĩnh vực năng lượng tái tạo, nông nghiệp sạch, vệ sinh môi trường, dệt may và nhiều lĩnh vực khác. Dư nợ cấp tín dụng đối với các dự án xanh chiếm hơn 4% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tăng 0,46% so với năm 2020.Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, hệ thống ngân hàng đã nỗ lực triển khai nhiều giải pháp nhằm đẩy mạnh nguồn vốn tín dụng xanh, tuy nhiên việc triển khai cung ứng vốn cho các doanh nghiệp phát triển xanh, bảo vệ môi trường vẫn cần đẩy mạnh hơn nữa trong thời gian tới.Để huy động được đầu tư tư nhân, chính sách của Chính phủ cần có tầm nhìn dài hạn hơn thay vì các chính sách ngắn hạn để tạo sự tin tưởng của khối tư nhân. Hiện nay, rất nhiều các khoản đầu tư của tư nhân nhưng chỉ ngắn hạn trong thời gian 4 – 5 năm, sau đó họ chuyển sang các lĩnh vực khác do lo sợ về về mặt chính sách.

 6. Kết luận

Có thể nói, chuyển đổi nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế xanh là xu hướng nhiều quốc gia trên thế giới đang hướng tới. Việt Nam đang đặt ra nhiều ưu tiên cho việc xây dựng nền kinh tế xanh và rất cần thu hút các nguồn vốn đầu tư vào các dự án phát triển bền vững. Vì vậy, cần có những sáng kiến và giải pháp đột phá để huy động đầu tư tư nhân vào các dự án mang lại hiệu quả về môi trường, xã hội và quản trị. Qua đó, góp phần tạo việc làm, đóng góp vào tăng trưởng toàn diện cũng như giúp Việt Nam hoàn thành các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) vào năm 2030. 

Đặc biệt, cần đẩy mạnh triển khai mô hình hợp tác công tư, chủ động tiếp cận các nguồn vốn từ tư nhân cũng như triển khai các công cụ tài chính dựa vào thị trường, như thị trường mua bán và trao đổi tín chỉ carbon để bảo đảm tính bền vững và nguồn lực tài chính ổn định cho phát triển xanh

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

Phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam 2022 – thực trạng và giải pháp

https://moit.gov.vn/phat-trien-ben-vung/tang-truong-xanh-nen-tang-cho-phat-trien-ben-vung.html

https://www.vietnamplus.vn/kien-dinh-con-duong-phat-trien-xanh-vi-tuong-lai-ben-vung/778369.vnp

http://baohoabinh.com.vn/220/160253/Phat-trien-xanh-ben-vung.htm

Phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam 2022 – thực trạng và giải pháp

Tăng trưởng xanh – Sự nghiệp vì một Việt Nam bền vững